Khi mùa hạ đã đi qua, lá thôi xanh, hoa hết thắm, mùa thu đến chơi vơi, lá tàn khô héo rụng, khu vườn ảm đạm thê lương, chợt như bừng sức sống, khi những cụm hoa cúc vàng, nữ chúa của mùa thu (The autumn’s queen Chrysanthemum) bắt đầu hé nhụy “cúc hoa xoè cánh nở bung” …để tô điểm cho khung trời thu và màu thu vàng đã dồn hết vào sắc vàng của bông hoa cúc không còn lại gì …
As we watch the summer days depart
And the painted leaves in silence fall,
And the vines are dead upon the wall;
A dreamy sadness fills each heart,
Our garden seems a dreary place,
No brilliant flowers its borders grace,
Save in a sheltered nook apart,
Where gay beneath the autumn sun
Blooms our own Chrysanthemum.
Chrysanthemum (Hattie L. Knapp)
And the painted leaves in silence fall,
And the vines are dead upon the wall;
A dreamy sadness fills each heart,
Our garden seems a dreary place,
No brilliant flowers its borders grace,
Save in a sheltered nook apart,
Where gay beneath the autumn sun
Blooms our own Chrysanthemum.
Chrysanthemum (Hattie L. Knapp)
Lặng nhìn mùa hạ qua mau
Không gian quạnh vắng lá sầu nhẹ rơi
Cành nho héo rũ tường vôi
Trái tim mơ mộng chơi vơi nỗi buồn
Màu thê lương phủ kín vườn
Hoa thôi sắc thắm bờ mương hàng rào
Xa nơi xó xỉnh đồi cao
Trời thu rực rỡ vui chào ánh dương
Cúc hoa xoè cánh nở bung …
Hải Đà phỏng dịch
Không gian quạnh vắng lá sầu nhẹ rơi
Cành nho héo rũ tường vôi
Trái tim mơ mộng chơi vơi nỗi buồn
Màu thê lương phủ kín vườn
Hoa thôi sắc thắm bờ mương hàng rào
Xa nơi xó xỉnh đồi cao
Trời thu rực rỡ vui chào ánh dương
Cúc hoa xoè cánh nở bung …
Hải Đà phỏng dịch
Yosa Buson, một thi sĩ Nhật Bản trong bài thơ HaiKu, đã phải thốt lên rằng:Trước nhành hoa cúc trắng
Ngỡ ngàng cái kéo ngập ngừng thôi
Trong phút giây bất chợt
(vì không nỡ phải phủ phàng cắt rời hoa, bắt hoa phải lìa cành mãi mãi)Before the white chrysanthemum
the scissors hesitate
a moment.
(by Yosa Buson)
Ngỡ ngàng cái kéo ngập ngừng thôi
Trong phút giây bất chợt
(vì không nỡ phải phủ phàng cắt rời hoa, bắt hoa phải lìa cành mãi mãi)Before the white chrysanthemum
the scissors hesitate
a moment.
(by Yosa Buson)
Hoa cúc nở giữa vườn thu đã gợi muôn niềm thi hứng cho tao nhân mặc khách muôn phương trên thế giới . Thi sĩ Dora Read Goodale trong một ngày thu ấm, khi diễn tả loài hoa cúc có tên là “Asters”, mà người ta thường gọi là hoa Cúc tây, hay là hoa sao, có tên gọi bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “Aster”, có nghĩa là ngôi sao. Người ta nói nó là tượng trưng cho sự “chín chắn” vì nó nở hoa vào đầu mùa thu khi mà đa số các loài hoa khác đã tàn. Cúc Tây được đem từ Trung Quốc vào châu Âu năm 1730 bởi một nhà truyền giáo người Pháp, và qua nhiều kỹ thuật cấy ghép khoa học tài tình, nên ngày nay loài hoa trắng như tuyết này đã rất phong phú và đa dạng chủng loại, nên Cúc tây mang thêm ý nghĩa cho “tình yêu muôn sắc muôn màu”.
The Autumn wood the aster knows,
The empty nest, the wind that grieves,
The sunlight breaking thro’ the shade,
The squirrel chattering overhead,
The timid rabbits lighter tread
Among the rustling leaves.
Asters in the Cofrin Arboretum (Dora Read Goodale)
The empty nest, the wind that grieves,
The sunlight breaking thro’ the shade,
The squirrel chattering overhead,
The timid rabbits lighter tread
Among the rustling leaves.
Asters in the Cofrin Arboretum (Dora Read Goodale)
Cúc hoa cảm cảnh rừng thu
Quạnh hiu tổ trống, vi vu gió sầu
Ánh dương thơ thới ửng màu
Tung tăng sóc nhảy trên đầu líu lo
Rụt rè thỏ bước nhởn nhơ
Dẫm chân khua tiếng lá khô xạc xào
Hải Đà phỏng dịch
Quạnh hiu tổ trống, vi vu gió sầu
Ánh dương thơ thới ửng màu
Tung tăng sóc nhảy trên đầu líu lo
Rụt rè thỏ bước nhởn nhơ
Dẫm chân khua tiếng lá khô xạc xào
Hải Đà phỏng dịch
Trồng hoa cúc là một thú vui tao nhã của các cụ ngày xưa. Nói đến hoa cúc là người ta thường nghĩ đến mùa Thu, hoa cúc và mùa thu có một một sự giao tình kỳ lạ .Thu vốn mang một ấn tượng buồn, chùng lắng tâm cảm của người, cúc đua nở trong mùa thu đã đem lại một sự vui tươi đổi mới cho cảnh tình . Thi sĩ Nguyễn Khuyến đặc biệt có tâm hồn mẫn cảm với mùa thu, như qua ba bài thơ Thu Vịnh, Thu Ẩm, Thu Điếu .Đặc biệt trong bài Thu vịnh, thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng đã một lần nhắc nhở đến thi sĩ Đào Tiềm của Đường Thi, một người bạn tri kỷ của hoa cúc vàng “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào! ” :
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào!
Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến)
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào!
Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến)
Trước cảnh sắc muôn chiều của mùa thu với lá vàng bay, với nước ao trong veo, với cảnh thanh tịnh, Nguyễn Khuyến cũng đã thường nhắc nhở đến loài hoa cúc. Cúc biểu lộ sự khoan dung, khoáng đạt, sự chung tình da diết. Cúc héo tàn nhưng chẳng lìa thân, diễn đạt một tư tưởng thanh tao, một ý niệm trung trinh của tâm hồn chẳng bao giờ quên gốc gác cội nguồn. Thơ Nguyễn Khuyến đã thể hiện cái nhàn nhã, sự khắng khít với thiên nhiên, tâm hồn nhẹ nhõm, xem đời tựa như áng mây trôi, nhưng cũng đã bộc lộ nên cái nhân cách trí thức của nhà nho “Tháng rét một mình, thưa bóng bạn, Nhị thơm chẳng rữa, chạnh lòng ai ” :
Xuân qua tới tấp mận cùng đào,
Lá mốc cành rêu lẩn chốn nào?
Giữ tiết dường như yên phận khó,
Dành hương cốt để đợi thu cao.
Thương thầm vườn cổ nên như vậy,
Đứng giữa hơi may mới biết nhau!
Trong sạch tấm lòng đâu dễ kiếm,
Đào Tiềm chỉ gặp lúc về hưu!
Lá mốc cành rêu lẩn chốn nào?
Giữ tiết dường như yên phận khó,
Dành hương cốt để đợi thu cao.
Thương thầm vườn cổ nên như vậy,
Đứng giữa hơi may mới biết nhau!
Trong sạch tấm lòng đâu dễ kiếm,
Đào Tiềm chỉ gặp lúc về hưu!
Trăm hoa đua nở, vắng ngươi hoài!
Trăm hoa tàn rồi mới thấy ngươi
Tháng rét một mình, thưa bóng bạn
Nhị thơm chẳng rữa, chạnh lòng ai
Nhấp nhô lưng giậu xanh chồi trúc
Óng ả đầu hiên mướt ngọn mai
Cất chén mỉm cười, vừa ý tớ
Bõ công vun xới đã lâu ngày
Vịnh Hoa Cúc (Nguyễn Khuyến)
Trăm hoa tàn rồi mới thấy ngươi
Tháng rét một mình, thưa bóng bạn
Nhị thơm chẳng rữa, chạnh lòng ai
Nhấp nhô lưng giậu xanh chồi trúc
Óng ả đầu hiên mướt ngọn mai
Cất chén mỉm cười, vừa ý tớ
Bõ công vun xới đã lâu ngày
Vịnh Hoa Cúc (Nguyễn Khuyến)
Cúc đã đem lại cho mùa thu biết bao vẻ đẹp . Cúc tha thiết gắn bó với mùa thu , cúc hòa điệu giao cảm với mùa thu , đem lại bâng khuâng xao xuyến rạo rực cho thi nhân, người thơ đã chân thành bộc lộ trước hình ảnh trong sáng đẹp tươi của một loài hoa “ thi khách trầm tư mơ dáng ngọc”
Giữa nụ Cúc vàng Thu bưóc ra
Bừng tươi lưng giậu , sáng sân nhà
Thanh thanh vạt áo đan hương sớm
Biêng biếc vành khăn cuộn nắng tà
Thi khách trầm tư mơ dáng ngọc
Người thơ ngơ ngẫn nhớ môi hoa
Nầy Em… cổ khúc ngàn năm trước
Xưa hẹn gieo vần.. có nhớ Ta ???
Huyền Thoại (Vàng Anh)
Bừng tươi lưng giậu , sáng sân nhà
Thanh thanh vạt áo đan hương sớm
Biêng biếc vành khăn cuộn nắng tà
Thi khách trầm tư mơ dáng ngọc
Người thơ ngơ ngẫn nhớ môi hoa
Nầy Em… cổ khúc ngàn năm trước
Xưa hẹn gieo vần.. có nhớ Ta ???
Huyền Thoại (Vàng Anh)
Xuân Quỳnh (1942-1988) là một nhà thơ lãng mạn đã diễn tả tình yêu như một khát vọng chân tình, bồi hồi và tha thiết khôn nguôi . Cúc hoa là một hình ảnh duyên dáng, một nguồn cảm hứng trong thơ Xuân Quỳnh, hay là nhân dáng của chính người thơ, như sự bộc lộ chân tình của Lưu Quang Vũ, người bạn đời của Xuân Quỳnh: “Cảm ơn em, em từ miền cát gió, Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng” (LQV) . Hoa Cúc chính là biểu tượng đích thực của cái đẹp tinh tế, hồn nhiên trong vườn đời, đủ để Xuân Quỳnh phải tha thiết, vương vấn một cách rạo rực:
Có thay đổi gì không cái màu hoa ấy
Mùa hạ qua rồi lại đến mùa thu
Thời gian đi màu hoa cũ về đâu
Nay trở lại vẫn còn như mới mẻ
Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là đã khác với em xưa
Nắng nhạt vàng, ngày đã quá trưa
Nào đâu những biển chờ nơi cuối đất
Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
Chỉ em là đã khác với em thôi
Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi
Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy
Gương mặt ấy lời yêu thuở ấy
Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em.Hoa cúc-1980 (Xuân Quỳnh)
Mùa hạ qua rồi lại đến mùa thu
Thời gian đi màu hoa cũ về đâu
Nay trở lại vẫn còn như mới mẻ
Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là đã khác với em xưa
Nắng nhạt vàng, ngày đã quá trưa
Nào đâu những biển chờ nơi cuối đất
Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
Chỉ em là đã khác với em thôi
Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi
Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy
Gương mặt ấy lời yêu thuở ấy
Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em.Hoa cúc-1980 (Xuân Quỳnh)
“Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em” tạo nên ngọn lửa tình yêu tha thiết nồng nàn, hứa hẹn khát khao trong trái tim yêu triền miên bát ngát như trùng dương, tưởng chừng như chỉ có biển bao la mới hiểu được lòng thuyền (Thuyền và Biển). Đó là tiếng gọi của sức mạnh tình yêu và chỉ có người thơ mới cảm thông với tình vô biên của cúc, để mà thao thức, suy tư “ trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc ” giữa màn sương khói chập chùng của khung trời thu bao la bát ngát.
Vẫn con đường, vạt cỏ tuổi mười lăm
Mặt hồ rộng, gió đùa qua kẽ lá
Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết lời nào giả dối với lời yêu…
Tôi đã qua biết mấy buổi chiều
Bao hồi hộp, lo âu và hạnh phúc
Tôi trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc
Đợi tiếng gà đánh thức sự bình yên
Thơ Tình Cho Bạn Trẻ (Xuân Quỳnh)
Mặt hồ rộng, gió đùa qua kẽ lá
Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết lời nào giả dối với lời yêu…
Tôi đã qua biết mấy buổi chiều
Bao hồi hộp, lo âu và hạnh phúc
Tôi trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc
Đợi tiếng gà đánh thức sự bình yên
Thơ Tình Cho Bạn Trẻ (Xuân Quỳnh)
Trằn trọc thâu đêm, cũng vì hình ảnh đáng yêu của bông cúc vàng, với trí tưởng bay bổng, tự hỏi trong giấc mơ của người tình phương xa, có gắn bó, thầm thương trộm nhớ loài hoa này, như nghĩa tình quyến luyến khôn vơi “anh mơ anh có thấy em”…để suốt đời người thơ vẫn mãi đi tìm kiếm, dù chỉ là giấc mơ xa, một chút sắc nắng vàng nhè nhẹ trải dọc trước bờ hiên, đem lại hình ảnh sống động tượng trưng của loài hoa cúc “Người đã ra đi khi mùa chưa hoa cúc, và ta mơ hoang một sắc nắng vàng”
Anh mơ anh có thấy em
Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê
Chiếc mo rơi ở bờ tre
Con sông thăm biển đã về rừng xưa
Đám mây về với cơn mưa
Con đường đi tới miền chưa có đường.
Hát Ru (Xuân Quỳnh)
Anh mơ anh có thấy em
Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê
Chiếc mo rơi ở bờ tre
Con sông thăm biển đã về rừng xưa
Đám mây về với cơn mưa
Con đường đi tới miền chưa có đường.
Hát Ru (Xuân Quỳnh)
(…) Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mông.
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em (…)
Thơ tình cuối mùa thu (Xuân Quỳnh)
Theo dòng nước mênh mông.
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em (…)
Thơ tình cuối mùa thu (Xuân Quỳnh)
Thơ Tình Cuối Mùa Thu
thơ Xuân Quỳnh-Phan Huỳnh Ðiểu phổ nhạc
Uploaded by Phung Hoang Linh Trieu
Cúc lấp lánh vàng , đó là một sự pha màu hài hòa, đem lại sự sinh động tươi mát cho khung trời thu vốn ảm đạm, buồn hiu hắt . Sắc hoa cứ vàng tươi, hương hoa ngan ngát đong đưa “lùa trong áo” người tình tạo nên một mùa thu kỳ diệu, một mùa thu mẫn cảm của hương trời nhụy đất ngất ngây….Cái diệu ảo của hương, cái thanh tân của lá, sự quyến rũ của màu, trong cảnh lạ của trời thu, tất cả đều để lại dấu ấn khó nhoà phai trong cõi lòng sâu thẳm của thi nhân:
Thu đến rồi sao, vàng lá múa
Vàng bay lấp lánh mấy thu xưa
Em đi hương cúc lùa trong áo
Tay khoác lưng chiều thơm nắng mưa
Mùa Lá Chín (Hà Huyền Chi)
Vàng bay lấp lánh mấy thu xưa
Em đi hương cúc lùa trong áo
Tay khoác lưng chiều thơm nắng mưa
Mùa Lá Chín (Hà Huyền Chi)
Không ai có thể dửng dưng với mùa thu, khi nhìn thấy đóa cúc vàng, những màu hoa, sắc hoa, dáng hoa của những ngày xưa ngóng đợi ..như cất lên những lời đồng cảm với người thơ, những hoài niệm trong trí tưởng chừng như bật sáng ngời, mời mọc người thơ, bồi hồi không yên, thêm một lần dấn thân về vùng đất cũ, tìm lại chút hương xưa trong nỗi nhớ vô cùng ..
Giữ gì tình ơi ? đôi mắt đưa
Lạc thơ lạc cả hồn ngủ trưa
Trở về đi giòng sông ngày cũ
Có nhánh cúc vàng đợi hiên xưa .
Vàng Phai (Ấu Tím)
Lạc thơ lạc cả hồn ngủ trưa
Trở về đi giòng sông ngày cũ
Có nhánh cúc vàng đợi hiên xưa .
Vàng Phai (Ấu Tím)
Về hiên xưa để tìm lại … “cúc nở trong vườn em …cúc nở xinh thật xinh, như vui mãi một mình , dù tình xưa mờ nhạt …” Hình ảnh của “cúc nở xinh thật xinh” .. vẫn mãi là hình ảnh lung linh sống động, làm tươi mát cả khung trời tuổi thơ yêu dấu, dòng sông kỷ niệm ngọt ngào gợi nhớ, thiết tha bao ý tình. Hồi ức chứa chan tìm về vườn xưa, nơi đó là cả một khung trời yêu bỗng xao động, ngỡ ngàng, thổn thức trong âm điệu bâng khuâng, man mác buồn theo nỗi “nhớ nhung nào cho vừa, khung nhạc trầm run rẩy ...” :
Cúc nở trong vườn em
Giơ tay ! xin chớ hái
Em sợ hoa cúc tàn
Mùa Thu chùng tê tái
Cúc nở xinh thật xinh
Như vui mãi một mình
Dù tình xưa mờ nhạt
Cúc vẫn xinh thật xinh
Cúc nở riêng một mình
Cả khối tình rực rỡ
Ánh nắng vàng lung linh
Thinh không ngây bỡ ngỡ .
Cúc nở bên rào thưa
Nhớ nhung nào cho vừa
Khung nhạc trầm run rẩy
Cúc lặng thầm gió đưa…
Hoàng Cúc (Ấu Tím)
Giơ tay ! xin chớ hái
Em sợ hoa cúc tàn
Mùa Thu chùng tê tái
Cúc nở xinh thật xinh
Như vui mãi một mình
Dù tình xưa mờ nhạt
Cúc vẫn xinh thật xinh
Cúc nở riêng một mình
Cả khối tình rực rỡ
Ánh nắng vàng lung linh
Thinh không ngây bỡ ngỡ .
Cúc nở bên rào thưa
Nhớ nhung nào cho vừa
Khung nhạc trầm run rẩy
Cúc lặng thầm gió đưa…
Hoàng Cúc (Ấu Tím)
Trong sương lạnh của ban mai vào đầu thu, chút nắng sớm dịu dàng bám trên đọt cây kẽ lá của chậu cúc vàng, càng làm tăng thêm vẽ đẹp lộng lẫy của “nữ hoàng” .. đang thầm lặng tỏa hương …
Dù bốn mùa có tuần tự đổi thay, nhưng lòng người vẫn thủy chung bất biến, vẫn ôm ấp hình ảnh của bông cúc vàng ăm ắp những nỗi nhớ khó nhòa phai của mùa thu hoài niệm “Tim anh đã niệm từ vàng cúc xưa”Cúc vẫn luôn đem lại những âm điệu triền miên, những cảm giác hòa nhịp với tâm tư thầm lắng, cái xôn xao khó tả của lòng người khi trời đã bắt đầu vào thu:
Dù bốn mùa có tuần tự đổi thay, nhưng lòng người vẫn thủy chung bất biến, vẫn ôm ấp hình ảnh của bông cúc vàng ăm ắp những nỗi nhớ khó nhòa phai của mùa thu hoài niệm “Tim anh đã niệm từ vàng cúc xưa”Cúc vẫn luôn đem lại những âm điệu triền miên, những cảm giác hòa nhịp với tâm tư thầm lắng, cái xôn xao khó tả của lòng người khi trời đã bắt đầu vào thu:
Lại bắt đầu mùa thu
Không lẽ gió cũng thở dài như thế
Hoa cúc nở vào say mê cũ
Những chấm lặng rực rỡ dở dang
Đâu chỉ có mùa thu mới nhắc mình buồn
Anh vẫn đâu đây trên thế gian nhưng không còn thuộc về em nữa
Như heo may dẫu nồng nàn đến thế
Mà biết đâu cúc vẫn nở trái mùa
Hoa Cúc-1996(Đường Hải Yến)
Không lẽ gió cũng thở dài như thế
Hoa cúc nở vào say mê cũ
Những chấm lặng rực rỡ dở dang
Đâu chỉ có mùa thu mới nhắc mình buồn
Anh vẫn đâu đây trên thế gian nhưng không còn thuộc về em nữa
Như heo may dẫu nồng nàn đến thế
Mà biết đâu cúc vẫn nở trái mùa
Hoa Cúc-1996(Đường Hải Yến)
Thu và hoa cúc đem lại sự nao nức cho lòng người, lay động hồn thơ, tạo những âm thanh lưu luyến, những cảm xúc bộc phát, tuôn tràn, có thể là những giọt lệ xót thương, tủi hờn cho riêng một thế giới có thể là thất vọng chia xa, nuối tiếc ngày xưa, hay hoài vọng mong ước gặp gỡ trong niềm hy vọng ngày mai chợt sáng. Thu và Cúc đã đem thơ đến những miền xa xăm và sâu thẳm của tâm hồn, tạo nên những tiếng nói kỳ diệu của con tim nhạy cảm:
Có một loài Hoa trổ nụ vàng
khi trời trở lạnh gió mùa sang
e ấp ôm tình hương thu lạnh
trao cả tình anh đón Cúc vàng …
Tình Hoa (Tuấn Đăng)
khi trời trở lạnh gió mùa sang
e ấp ôm tình hương thu lạnh
trao cả tình anh đón Cúc vàng …
Tình Hoa (Tuấn Đăng)
Thu Sắp về rồi đó Cúc ơi !
Hoa Vàng áo đẹp dáng em cười
đêm nay trăng về treo đèn mộng
nguyện ước ngàn sao sáng giữa trời
Thôi em ! đừng để lệ anh rơi
thương nhớ bao lâu đã đủ rồi
thức dậy cùng anh so cung phím
anh hát ru em mãi suốt đời …
Thu Vàng (Tuấn Đăng)
Hoa Vàng áo đẹp dáng em cười
đêm nay trăng về treo đèn mộng
nguyện ước ngàn sao sáng giữa trời
Thôi em ! đừng để lệ anh rơi
thương nhớ bao lâu đã đủ rồi
thức dậy cùng anh so cung phím
anh hát ru em mãi suốt đời …
Thu Vàng (Tuấn Đăng)
Nhìn lá vàng anh ngỡ là hoa cúc
Thu đã về anh cứ tưởng Xuân sang
Vì nuối tiếc ngày xanh qua vội quá
Soi hồ Thu ánh mắt thấy ngỡ ngàng Thu Cảm (Tân Văn)
Thu đã về anh cứ tưởng Xuân sang
Vì nuối tiếc ngày xanh qua vội quá
Soi hồ Thu ánh mắt thấy ngỡ ngàng Thu Cảm (Tân Văn)
Vài đoá Cúc vàng nở sớm mai
Long lanh nhành lá hạt sương cài
Đất trời cảnh sắc như vàng dát
Một thoáng thu về, chợt nhớ ai
Thu Sớm (Thái Bình Nam)
Long lanh nhành lá hạt sương cài
Đất trời cảnh sắc như vàng dát
Một thoáng thu về, chợt nhớ ai
Thu Sớm (Thái Bình Nam)
Sưu Tầm về hoa Cúc
Hoa cúc Theo phong tục Việt Nam, Tết Nguyên đán trong nhà , ngoài Mai và Đào, cũng cần phải có vài chậu Cúc mới gọi là đón xuân..
Tuy Cúc vẫn có thể nở rộ mỗi độ Xuân về tại Việt Nam, nhưng tại một số quốc gia khác như Nhật, Trung Hoa, Triều Tiên..cúc lại là loại hoa của.. mùa thu
Cúc chiếm một vị trí khá đặc biệt trong Văn chương và Nghệ thuật Trung Hoa : cùng với Mai, Lan và Trúc hoa Cúc là một trong tứ ‘hữu’ và thường được xem như biểu tượng cho mùa Thu (?)
Cúc chiếm một vị trí khá đặc biệt trong Văn chương và Nghệ thuật Trung Hoa : cùng với Mai, Lan và Trúc hoa Cúc là một trong tứ ‘hữu’ và thường được xem như biểu tượng cho mùa Thu (?)
Triết gia đời Tống Bạch cư Dị, mô tả Cúc, vì thường nở vào cuối Thu như một loài hoa của các nhà ẩn sĩ vì hoa biết tránh xa mùa Xuân là mùa trăm hoa khác đua nở !
Theo Chung Hi thì :
– Cúc hoa, sớm trồng nhưng muộn nở : Đó là cái đức của người Quân tử.
– Cúc hoa nở giữa mùa sương tuyết, tượng trưng cho sự kiên trinh.
Theo Chung Hi thì :
– Cúc hoa, sớm trồng nhưng muộn nở : Đó là cái đức của người Quân tử.
– Cúc hoa nở giữa mùa sương tuyết, tượng trưng cho sự kiên trinh.
Với các nhà thơ Nhật thì Cúc được xem là biểu tượng của ‘Nét buồn thơ mộng, khôn ngoan’ của những ngày đông giá, mùa thích hợp nhất trong các thi phẩm loại Haiku..
Cúc và Thiền Thi:
Triệu Chương Tuyền, một thi nhân đời Tống, với những bài thơ miêu tả đời sống an nhàn thanh đạm, hòa đồng cùng vũ trụ thiên nhiên, trong một bài “Luận Thi” (bàn bạc về Thơ), có câu : ” Thu cúc xuân lan ninh dị địa. Thanh phong minh nguyệt bổn đồng thiên” (hoa cúc nở mùa thu, hoa lan nở mùa xuân là do thời tiết, chứ không phải do nơi đất đai khác nhau . Gió mát trăng thanh vốn cùng ở trong một bầu trời), đã nói lên cái phong độ thư thái an nhàn, tất cả cũng chỉ là sự tình cờ bất chợt trong cái vô thường của vũ trụ, “gió mát” -vô hình- là cái “không”, “trăng thanh” -hữu hình -là cái “sắc” . “Không” chính là cái bản chất của vạn vật, còn “sắc” là cái biểu tượng bên ngoài .Đó là hai mặt của một bản thể thường hằng bất biến, tuy hai nhưng là một …”sắc tức thị không, không tức thị sắc”
Triệu Chương Tuyền, một thi nhân đời Tống, với những bài thơ miêu tả đời sống an nhàn thanh đạm, hòa đồng cùng vũ trụ thiên nhiên, trong một bài “Luận Thi” (bàn bạc về Thơ), có câu : ” Thu cúc xuân lan ninh dị địa. Thanh phong minh nguyệt bổn đồng thiên” (hoa cúc nở mùa thu, hoa lan nở mùa xuân là do thời tiết, chứ không phải do nơi đất đai khác nhau . Gió mát trăng thanh vốn cùng ở trong một bầu trời), đã nói lên cái phong độ thư thái an nhàn, tất cả cũng chỉ là sự tình cờ bất chợt trong cái vô thường của vũ trụ, “gió mát” -vô hình- là cái “không”, “trăng thanh” -hữu hình -là cái “sắc” . “Không” chính là cái bản chất của vạn vật, còn “sắc” là cái biểu tượng bên ngoài .Đó là hai mặt của một bản thể thường hằng bất biến, tuy hai nhưng là một …”sắc tức thị không, không tức thị sắc”
Sắc hoa, hương hoa, dáng hoa đã đem lại sự nồng nàn tha thiết, sự lãng mạn trữ tình cho người thơ . Hoa phảng phất những dư âm, làm rung cảm tình người, hoa hình như cũng muốn hòa chung vào cảm xúc, rung động của con người , vốn dĩ tất bật trong cuộc đời phù du tạm bợ này. Hoa đem lại hình ảnh đẹp nhưng cũng thật mong manh ..”sắc tức thị không…” .như Bạch Cư Dị trong bài “Ký Vương Sơn Nhân” đã nói “Tùng thụ thiên niên hủ, Cẩn hoa nhất nhật yến, Tất cánh cộng không hư, Hà tu khoa tuế nguyệt” (cây thông ngàn năm mới mục, hoa dâm bụt một ngày đã tàn, Cuối cùng tất cả là hư không, Việc gì mà phải khoe cùng năm tháng)
Bàn về hoa cúc, người ta thường nhắc đến bài thơ man mác hương vị thiền, siêu thoát của nhà sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần .Tên thật của ông là Lý Ðạo Tái, pháp danh Huyền Quang, tổ thứ ba phái Thiền học Trúc Lâm . Các tác phẩm của ông gồm có “Chư phẩm kinh”, “Công văn tập”, và tập thơ “Ngọc tiên tập” có bài thơ Cúc Hoa nổi tiếng. Phần nhiều tác phẩm bị thất lạc, hiện giờ chỉ còn khoảng 24 bài được lưu lại đến ngày nay .
Theo tác giả Nguyễn Lang (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận) : “Huyền Quang giỏi Phật học nhưng thơ của ông bình dị, ít nặng nề danh từ Phật Giáo. Tuy vậy tính cách đạt ngộ thanh thoát vẫn bàn bạc trong thơ ông. Trong bài Hoa Cúc ta đã đọc những câu ông viết về chuyện ngắm hoa tuyệt diệu, trong đó người với hoa hồn nhiên là một và hình ảnh kỳ diệu của một bông cúc nở trong trạng thái ấy. Ông cười với tất cả lòng từ bi khi nhìn thấy một thiếu nữ vì không thấy được bản chất mầu nhiệm của cúc, đã hái cúc cắm đầy đầu trước khi ra về “
“Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Khi tuổi đã già, lòng đã khô héo, chỉ có hoa cúc mới làm êm dịu được lòng ông. Trúc với mai đối với ông không thể nào so với cúc được. Trong vườn đây đó ông trồng toàn hoa cúc. Ngồi thiền xong, ông ngồi ngắm cúc cho tới khi người ngắm hoa và hoa, hai thứ hồn nhiên là một. Kết quả là cái thấy về thực tại của ông nở sáng như một đóa hoa …Bài thơ hoa cúc của ông có nhiều tình tiết cảm động, bình dị mà siêu thoát. Ta hãy đọc toàn bài để thưởng thức sự rung cảm của một người trên 70 tuổi, một người xem như hoa cỏ cả thân mạng và cuộc đời nhưng hễ thấy hoa cúc là tâm tình rộn ràng như một người trai trẻ thấy bóng người yêu” (Nguyễn Lang):
Tùng Thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa
Thiên giang vô mộng cán khô trường
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu ngâm hồn vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu ngâm hồn vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang
Vong thân vong thế dĩ đô vương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
Niên niên hòa lộ hướng đương khai
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai
Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân nhữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân nhữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Xuân lai hoàng bạch các phương phi
Ái diễm liên hương diệc tự thì
Biên giới phồn hoa toàn trụy địa
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly
Cúc Hoa (Huyền Quang)
Tường Hủ nhà xinh nghe trúc reo
Tây Hồ cảnh đẹp thấy mai treo
Nghĩa tình chẳng hợp chăng đi nữa
Vườn cúc nơi nơi nở rộ đều
Sông ngàn đâu dễ nỗi niềm vơi
Mai vịnh trăm lần cũng thế thôi
Thổn thức sầu ngâm đầu vẫn bạc
Hân hoan cúc nở thấy lòng vui
Thế sự thân mình quên hết thôi
Ngồi thiền giường lạnh cảnh chơi vơi
Rừng sâu không lịch năm cùng tận
Biết tiết Trùng Dương cúc nở cười
Ái diễm liên hương diệc tự thì
Biên giới phồn hoa toàn trụy địa
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly
Cúc Hoa (Huyền Quang)
Tường Hủ nhà xinh nghe trúc reo
Tây Hồ cảnh đẹp thấy mai treo
Nghĩa tình chẳng hợp chăng đi nữa
Vườn cúc nơi nơi nở rộ đều
Sông ngàn đâu dễ nỗi niềm vơi
Mai vịnh trăm lần cũng thế thôi
Thổn thức sầu ngâm đầu vẫn bạc
Hân hoan cúc nở thấy lòng vui
Thế sự thân mình quên hết thôi
Ngồi thiền giường lạnh cảnh chơi vơi
Rừng sâu không lịch năm cùng tận
Biết tiết Trùng Dương cúc nở cười
Năm tháng thu về nở thắm xinh
Trăng thanh gió mát thiết tha tình
Cười ai chẳng biết nhành vi diệu
Về xứ tóc đầy hoa khiết trinh
Người ở lầu cao hoa trước hiên
Ngồi im tâm tịnh đốt nhang thiền
Vật, người an phận không hiềm tị
Sánh với ngàn hoa cúc trước tiên
Trăng thanh gió mát thiết tha tình
Cười ai chẳng biết nhành vi diệu
Về xứ tóc đầy hoa khiết trinh
Người ở lầu cao hoa trước hiên
Ngồi im tâm tịnh đốt nhang thiền
Vật, người an phận không hiềm tị
Sánh với ngàn hoa cúc trước tiên
Xuân đến trắng vàng sắc điểm tươi
Ngát hương trang điểm cũng theo thời
Ngàn hoa rơi rụng trên ngàn lối
Hoa cúc rào đông lộng lẫy cười
Hải Đà phỏng dịch
Ngát hương trang điểm cũng theo thời
Ngàn hoa rơi rụng trên ngàn lối
Hoa cúc rào đông lộng lẫy cười
Hải Đà phỏng dịch
“Rừng sâu không lịch năm cùng tận, Biết tiết Trùng Dương cúc nở cười” rõ ràng người thơ đã tách mình ra khỏi vòng cương tỏa của kiếp sống phù bình, tự ẩn mật ở một nơi chốn nhẹ nhàng thanh thoát, không cần lịch và không cần biết ngày tháng trôi qua, thời gian có bất chợt đến trong tâm hồn của người thơ cũng do sự ngẫu nhiên mà thôi “Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật, Cúc hoa khai xứ tức trùng dương ..” , làm ta liên tưởng đến bài thơ Đáp Nhân (Trả lời Người) của Thái Thượng Ẩn Giả “Ngẫu lai tùng thụ hạ , Cao chẩm thạch đầu miên, Sơn trung vô lịch nhật, Hàn tận bất tri niên” (Tình cờ bước đến gốc thông, Gối cao trên đá giấc nồng chiêm bao, Khó tìm sách lịch núi cao, Rét run đã dứt năm nào chả hay? Hải Đà dịch), cũng cùng chung một ý tưởng với Đào Tiềm trong bài thơ “Đào hoa nguyên thi” :”tuy vô ký lịch chí tứ thời tự thành tuế” (tuy không có lịch ghi ngày tháng, nhưng bốn mùa tự thành năm)
Thiền sư đã làm một bài thơ vịnh hoa Cúc với những câu độc đáo như sau:
“Trong núi năm tàn không có lịch
Thấy hoa cúc nở tiết Trùng dương
Năm năm nở đúng tiết thu qua
Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu..”
Thấy hoa cúc nở tiết Trùng dương
Năm năm nở đúng tiết thu qua
Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu..”
Và thêm nữa là :
“Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nổ tung
Phương phi xuân sắc trắng hay vàng
Thời tiết tùy loại hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn..”
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
Nói về thơ thiền đời Lý Trần, người ta thường nhắc đến Viên Chiếu thiền sư (999 – 1091) tên là Mai Trực, người đất Phúc Ðường, huyện Long Ðàm, là cháu của Hoàng Hậu Linh Cảm (mẹ vua Lý Thánh Tôn). Sư thọ giáo với Định Hương Trưởng Lão, rất am tường phương pháp Tam Quán của Kinh Viên Giác. Sư đứng ở vị trí đầu thế hệ thứ bảy dòng thiền Quan Bích.
“Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nổ tung
Phương phi xuân sắc trắng hay vàng
Thời tiết tùy loại hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn..”
(Bản dịch của Nguyễn Lang)
Nói về thơ thiền đời Lý Trần, người ta thường nhắc đến Viên Chiếu thiền sư (999 – 1091) tên là Mai Trực, người đất Phúc Ðường, huyện Long Ðàm, là cháu của Hoàng Hậu Linh Cảm (mẹ vua Lý Thánh Tôn). Sư thọ giáo với Định Hương Trưởng Lão, rất am tường phương pháp Tam Quán của Kinh Viên Giác. Sư đứng ở vị trí đầu thế hệ thứ bảy dòng thiền Quan Bích.
“Thơ thiền phần lớn là những bài kệ, hoặc là vấn đáp giữa sư phụ và môn đệ cốt đưa đến việc khai thông trí tuệ. Nhiều bài cũng khô khan nghiêm khắc như những pháp cú, nhưng cũng có nhiều bài đẹp như một bài thơ. Nhiều khi những câu trả lời còn có dạng công án không trực tiếp liền nghĩa với câu hỏi như trong bài Tham đồ hiển quyết (Chỉ rõ bí quyết đạo thiền cho môn đệ) của thiền sư Viên Chiếu” (trích Đường Về Cõi Phật Qua Thơ Văn Xưa-Quách Thanh Tâm) .
Ly hạ Trùng Dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh
Viên Chiếu thiền sư
Chi đầu thục khí oanh.
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh
Viên Chiếu thiền sư
Lưng giậu thu về cúc nở hoa
Xuân nồng cành thắm tiếng oanh ca
Vầng dương rạng rỡ ngày tươi sáng
Đêm đến trăng vàng lấp lánh xa
(Hải Đà phỏng dịch)
Xuân nồng cành thắm tiếng oanh ca
Vầng dương rạng rỡ ngày tươi sáng
Đêm đến trăng vàng lấp lánh xa
(Hải Đà phỏng dịch)
Nguồn: vuonghaida.com
Về phương diện thực vật, nhóm hoa Cúc thuộc gia đình thực vật Asteraceae, có lẽ là nhóm hoa được chú ý và được sách vở mô tả rất nhiều, chỉ sau nhóm hoa Hồng. Cúc đã được trồng tại Trung Hoa cách nay ít nhất là 3000 năm. Hoa Cúc có rất nhiều loại, khác nhau về màu sắc và hình dáng.. Hai loài thông thường nhất là Cúc trắng hay Bạch cúc , hoa màu trắng sữa, cánh hoa dài, mềm mại và Cúc vàng hay Kim cúc, có cánh hoa to, màu vàng rực rỡ..ngoài ra còn có những loài Cúc khác như Cúc hoàng kim, Cúc đại đóa, Cúc chi, Cúc chùy, Cúp diệp tơ.. và Cúc Tần ô hay Cải cúc, Cúc vạn thọ, Cúc bất tử và cả..Cúc hôi….vv..
1- Cúc hoa trắng hay Bạch cúc
– Tên khoa học : Chrysanthemum morifolium = C. sinense.
(từ 1961, cây được xếp vào chi Dendranthema để trở thành Dendran thema morifolium= D. grandiflora, tuy nhiên tên cũ vẫn còn được dùng phổ biến trong các sách về thực vật và dược học)
– Tên thông thường : Mums, Florist’s Chrysanthemum.
Tại Trung Hoa : Ju hua (cúc hoa)
– Tên khoa học : Chrysanthemum morifolium = C. sinense.
(từ 1961, cây được xếp vào chi Dendranthema để trở thành Dendran thema morifolium= D. grandiflora, tuy nhiên tên cũ vẫn còn được dùng phổ biến trong các sách về thực vật và dược học)
– Tên thông thường : Mums, Florist’s Chrysanthemum.
Tại Trung Hoa : Ju hua (cúc hoa)
Sách vở Âu châu chỉ bắt đầu mô tả về Cúc vào 1689, và đây là cây hoa được trồng tại Hòa lan, cây bị chìm vào quên lãng để chỉ được ‘tái’ phát hiện vào 1789 và sau đó được ưa chuộng và phát triển rất mạnh tại Âu châu. Linnaeus đã đặt tên cho chi của cây là Chrysanthemum vào 1753 (chrysos=vàng; anthos=hoa, để chỉ màu vàng của nhóm hoa cúc trong chi này). Chrysanthemum morifolium ngày nay thật ra là loài được pha trộn từ ít nhất là 6 loài cúc khác nhau.
Cây thuộc loại thân thảo cao 60-90 cm, có thể hằng niên hay đa niên, gân hóa mộc . Thân nhẵn, có rãnh, mọc thẳng đứng, phân chia thành bụi, mang lá xếp thưa. Lá thuôn hình ngọn giáo hay hình bầu dục, dày, mặt dưới có lông và nhạt hơn mặt trên; phiến lá có mép khía răng và chia ra 3-5 thùy; gốc lá có tai. Hoa mọc thành cụm tròn lớn. Lá bắc bao bên ngoài phủ lông trắng, các lá bắc trong hình thuôn. Tại đầu hoa lớn chừng 1.5-5 cm, có 1-2 dãy hoa vòng ngoài có cánh môi màu trắng, các hoa ở giữa hình ống, màu vàng nhạt. Quả thuộc loại bế quả dạng trái xoan..
Bạch cúc đã được biến đổi rất nhiều để có thể trồng ven đường, trong chậu hay để cắt lấy hoa và hoa cũng thay đổi màu, không còn là màu trắng lúc ban đầu mà ..thành vàng, đò tím.. (tuy vẫn từ chủng Bạch cúc!)
Hình dạng của hoa cũng trở thành đa dạng : đơn, kép, cong úp (spoon), chùy (pompom)..Cây có thể nở hoa quanh năm, kể cả mùa Đông và mùa Xuân.
Bạch cúc được du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, được trồng tại nhiều nơi nhưng không phổ biến bằng Kim cúc (Cúc vàng)
Bạch cúc được du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, được trồng tại nhiều nơi nhưng không phổ biến bằng Kim cúc (Cúc vàng)
Thành phần hóa học :
Hoa Cúc trắng chứa :
– Tinh dầu dễ bốc hơi trong đó có camphor, carvone, camphene, borneol, bornyl acetate, chrysanthenone…
– Alkaloids : Stachydrine
– Các alcohol loại triterpene : heliaol, lupeol, taraxerol, cycloartenol..
– Flavonoids như Luteolin, Cosmosin, Acacetin-rhamnosin, Apigenin
– Các acid amin : Choline, adenine..
– Các vitamins : nhiều nhất là B1, E..
.
Các nghiên cứu dược học về Cúc trắng :
– Hoạt tính trên huyết áp :
Các nghiên cứu tại Nhật và Trung Hoa trong thập niên 70 ghi nhận : Nước sắc, đun sôi trong 15 phút 24-30 gram Cúc và 24-30 gram Kim ngân hoa (Lonicera japonica), chia thành 4 liều và dùng uống thay trà được thử nghiệm trên 46 người bệnh, uống trong 3-7 ngày liên tục.. kết quả huyết áp giảm hạ về mức bình thường nơi 35% bệnh nhân, số còn lại có kết kết quả tốt sau 1-12 ngày dùng thuốc. Các bệnh nhân huyêt áp cao có thêm choáng váng (vertigo) được cho dùng thêm 12 gram lá dâu tằm (tang diệp), sắc chung; bệnh nhân bị sơ động mạch và mỡ cao trong máu được cho uống thêm 12-24 gram sơn tra (Crataegus pinnatifida).. Các triệu chứng như chóng mặt, choáng váng đều thuyên giảm.
– Tác dụng trị đau tức ngực (angina pectoris) :
Một nghiên cứu khác tại Trung Hoa ghi nhận : Nước sắc hoa Cúc dùng trong 61 trường hợp angina pectoris cho kết quả hữu hiệu nơi 80% bệnh nhân : rất tốt cho 43.3 % và giúp thuyên giảm cho 36.7 % Các bệnh nhân vị tức ngực, hồi hộp, vertigo, tê ..đều thấy bớt được các triệu chứng. 45 % có những thay đổi về điện tâm đồ (EEG). Một số giảm được huyết áp, và tất cả không gặp các phản ứng phụ..
– Hoạt tính kháng sinh :
Hoa Cúc trắng chứa :
– Tinh dầu dễ bốc hơi trong đó có camphor, carvone, camphene, borneol, bornyl acetate, chrysanthenone…
– Alkaloids : Stachydrine
– Các alcohol loại triterpene : heliaol, lupeol, taraxerol, cycloartenol..
– Flavonoids như Luteolin, Cosmosin, Acacetin-rhamnosin, Apigenin
– Các acid amin : Choline, adenine..
– Các vitamins : nhiều nhất là B1, E..
.
Các nghiên cứu dược học về Cúc trắng :
– Hoạt tính trên huyết áp :
Các nghiên cứu tại Nhật và Trung Hoa trong thập niên 70 ghi nhận : Nước sắc, đun sôi trong 15 phút 24-30 gram Cúc và 24-30 gram Kim ngân hoa (Lonicera japonica), chia thành 4 liều và dùng uống thay trà được thử nghiệm trên 46 người bệnh, uống trong 3-7 ngày liên tục.. kết quả huyết áp giảm hạ về mức bình thường nơi 35% bệnh nhân, số còn lại có kết kết quả tốt sau 1-12 ngày dùng thuốc. Các bệnh nhân huyêt áp cao có thêm choáng váng (vertigo) được cho dùng thêm 12 gram lá dâu tằm (tang diệp), sắc chung; bệnh nhân bị sơ động mạch và mỡ cao trong máu được cho uống thêm 12-24 gram sơn tra (Crataegus pinnatifida).. Các triệu chứng như chóng mặt, choáng váng đều thuyên giảm.
– Tác dụng trị đau tức ngực (angina pectoris) :
Một nghiên cứu khác tại Trung Hoa ghi nhận : Nước sắc hoa Cúc dùng trong 61 trường hợp angina pectoris cho kết quả hữu hiệu nơi 80% bệnh nhân : rất tốt cho 43.3 % và giúp thuyên giảm cho 36.7 % Các bệnh nhân vị tức ngực, hồi hộp, vertigo, tê ..đều thấy bớt được các triệu chứng. 45 % có những thay đổi về điện tâm đồ (EEG). Một số giảm được huyết áp, và tất cả không gặp các phản ứng phụ..
– Hoạt tính kháng sinh :
Các dung dịch chiết từ lá Cúc trắng có hoạt tính ức chế sự tăng trưởng của các vi khuẩn Staphylococcus aureus, Beta-hemolytic Streptococ cus và Shigella sonnei. Có thể dùng lá tươi, nghiền nát và đắp thẳng vào mụn nhọt hay vắt lấy nước thoa vào vết thương.. Nghiên cứu tại ĐH Nihon (Nhật) ghi nhận các triterpinoids, trích từ hoa có hoạt tính ức chế vi khuẩn Lao Mycobacterium tuberculosis, chủng H(37) Rv ở những nồng độ tối thiểu MIC từ 4-64 microg/ml. (Biology and Pharmacy Bulletin Số 28-2005). Nghiên cứu tại Viện Khoa Học và Kỹ Thuật Quốc Gia Đại Hàn Seoul ghi nhận mt flavonoid glucuronide: apigenin-O-beta-D-(4’’-caffeoyl)glucuronide có hoạt tính ức chế men HIV-1 integrase ở IC(50)=7.2+/- 3.4 microg /ml) và chống hoạt động của HIV trong môi trường cấy tế bào EC(50)= 41.86 +/- 1.43 microg/ml, khi cấy vác tế bào MT-4 bị nhiễm HIV-1 (IIIB) (Planta Nedica Số 69-2003)
– Hoạt tính trên các tế bào ung thư :
Nghiên cứu tại Đại học Nihon, Tokyo (Nhật) ghi nhận 15 chất diol và triol loại pentacyclic triterpene gồm 6 thuộc loại taraxastane (faradiol, heliantriol B0, helantriol C,22 alpha-methoxyfaradiol, arnidiol, và faradiol alpha-epoxide) và 5 thuộc loại oleananes (maniladiol, erythrodiol, longispinogenin, coflodiol và heliantriol A), 2 loại ursanes (brein và uvaol), 2 loại lupanes (calenduladiol và heli antriol B2), trích từ hoa Cúc trắng, khi được thử nghiệm về tác dụng ức chế sự kích khởi sinh kháng thể siêu vi Epstein-Barr (EB-EA) gây ra bởi chất tạo u-bướu 12-O-tetradecanoylphorboil-1-acetate (nơi tế bào Raji) cho thấy các chất này có hoạt tính ức chế mạnh hơn glycyrrhetic acid (đã được xem là một chất chống u-bướu). Trong số này arnidiol có hoạt tính diệt tế bào ung thư mạnh nhất , liều GI50 (liều gây ức chế 50% tăng trưởng) là < 6 microM. (Cancer letter Số 8 (March)-2002)
– Hoạt tính chống sưng (kháng viêm=anti-inflammatory )
– Hoạt tính trên các tế bào ung thư :
Nghiên cứu tại Đại học Nihon, Tokyo (Nhật) ghi nhận 15 chất diol và triol loại pentacyclic triterpene gồm 6 thuộc loại taraxastane (faradiol, heliantriol B0, helantriol C,22 alpha-methoxyfaradiol, arnidiol, và faradiol alpha-epoxide) và 5 thuộc loại oleananes (maniladiol, erythrodiol, longispinogenin, coflodiol và heliantriol A), 2 loại ursanes (brein và uvaol), 2 loại lupanes (calenduladiol và heli antriol B2), trích từ hoa Cúc trắng, khi được thử nghiệm về tác dụng ức chế sự kích khởi sinh kháng thể siêu vi Epstein-Barr (EB-EA) gây ra bởi chất tạo u-bướu 12-O-tetradecanoylphorboil-1-acetate (nơi tế bào Raji) cho thấy các chất này có hoạt tính ức chế mạnh hơn glycyrrhetic acid (đã được xem là một chất chống u-bướu). Trong số này arnidiol có hoạt tính diệt tế bào ung thư mạnh nhất , liều GI50 (liều gây ức chế 50% tăng trưởng) là < 6 microM. (Cancer letter Số 8 (March)-2002)
– Hoạt tính chống sưng (kháng viêm=anti-inflammatory )
Dịch chiết hoa Cúc trắng, từ phần tan trong hexane và phần tan trong chất béo, sau khi tinh khiết hóa, đã cho nhiều loại esters acid béo (gần 30 chất khác nhau) và nhiều diol, triol loại triterpene ( 24 hợp chất). các hợp chất này được thử nghiệm về hoạt tính chống sưng trên loại sưng viêm nơi chut gây ra bằng 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA). Kết quả ghi nhận tính chất kháng viêm rất rõ với liều ID50 là 0.03-1.0 mg / tại mỗi tai chut, mạnh hơn cả tác dụng của quercetin. (Journal of Agricultural and Food Chemistry Số 49-2001).
– Các đặc chế chứa Cúc trắng của Trung Hoa :
Tại Trung Hoa, hiện có một số đặc chế được Bộ Y-Tế Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chính thức cho phép sử dụng để điều trị một số bệnh :
– Đặc chế Jiantangkang được dùng để trị các chứng tiểu đường không tùy thuc vào insulin (Chung kuo Chung His I Chieh Tsa Chih Số 17-1977).
– Bạch cúc là một trong 7 dược thảo được dùng trong đặc chế PC-SPES để trị ung thư nhiếp hộ tuyến, cho kết quả là làm giảm rõ rệt nồng độ PSA (prostate-specific antigen), diệt được các tế bào ung-thư, đồng thời làm giảm đáng kể testosterones. Trong 2 thử nghiệm, nồng độ PSA giảm hạ ngay sau 1 tháng dùng thuốc (New England Journal of Medicine Số 339-1998)
– Đặc chế Hua-sheng-ping phối hợp Cúc trắng, Cam thảo và Tam thất đã được dùng để trị các vết lở loét ‘tiền ung-thư’ nơi ruột .
.
Bạch cúc trong Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền Trung Hoa và Nhật dùng Bạch cúc để làm thuốc ;
– Sách thuốc Nhật Honso Komosu (thế kỷ 16) đã ghi Cúc trong thành phần một toa thuốc giúp kéo dài tuổi thọ. Theo toa thuốc này, mỗi bộ phận của cây như chồi non, hoa, cuống hoa, rễ..cần phải được thu hái vào những thời điểm khác nhau trong tiến trình tăng trưởng, phơi khô rồi tán thành bột. Uống bột mỗi ngày 3 lần trong 100 ngày. Sau 1 năm, tóc đang bạc sẽ trở lại đen..
– Dược học cổ truyền Trung Hoa ghi chép ‘Cúc hoa’ trong ‘Thần nông bản thảo kinh’, Lá được ghi, đầu tiên trong ‘Danh Y biệt lục’ (Đả0 Hoằng Cảnh) khoảng năm 500 , thời Nam-Bắc triều. Lý thời Trân trong Bản thảo cương mục đã chia Cúc thành nhiều loại, trị bệnh khác nhau..Dược liệu còn có những tên gọi khác như Cam cúc hoa (Gan-ju-hua)..Hàng cúc hoa..
Dược liệu: Cúc hoa (Ju-hua) là Hoa của cây Bạch cúc, thu hoạch vào tuần thứ ba trong tháng 10; đây là giai-đoạn hoa nở rộ tại các vùng nuôi trồng như An huy, Hà nam, Triết giang (đặc biệt nhất là vùng Hàng châu). Sau khi hái, hoa được sấy nhẹ đến khô, hay hấp rồi phơi nắng, hoẵc có thể hong khô trong phòng qua gió. ‘ Bạch cúc (bai-ju) là toàn cây cắt , rồi bó và treo đến khi khô rồi tách lấy hoa. ‘Chu cúc’(chu-yu) của An Huy là cây thu hái khi hoa gần như nở hết, rồi treo trong phòng tối đến khô, có thể xông sulfur đến khi hoa và lá mềm (đ khô chừng 60%). Cây được rung đến lúc hoa cụp tròn và đến khi khô hẳn.. Hoàng cúc (huang-ju) là hoa được rang qua lửa nhỏ đến khô (tại Triết giang). Cúc cũng còn được sao’ tồn tính’..
– Các đặc chế chứa Cúc trắng của Trung Hoa :
Tại Trung Hoa, hiện có một số đặc chế được Bộ Y-Tế Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chính thức cho phép sử dụng để điều trị một số bệnh :
– Đặc chế Jiantangkang được dùng để trị các chứng tiểu đường không tùy thuc vào insulin (Chung kuo Chung His I Chieh Tsa Chih Số 17-1977).
– Bạch cúc là một trong 7 dược thảo được dùng trong đặc chế PC-SPES để trị ung thư nhiếp hộ tuyến, cho kết quả là làm giảm rõ rệt nồng độ PSA (prostate-specific antigen), diệt được các tế bào ung-thư, đồng thời làm giảm đáng kể testosterones. Trong 2 thử nghiệm, nồng độ PSA giảm hạ ngay sau 1 tháng dùng thuốc (New England Journal of Medicine Số 339-1998)
– Đặc chế Hua-sheng-ping phối hợp Cúc trắng, Cam thảo và Tam thất đã được dùng để trị các vết lở loét ‘tiền ung-thư’ nơi ruột .
.
Bạch cúc trong Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền Trung Hoa và Nhật dùng Bạch cúc để làm thuốc ;
– Sách thuốc Nhật Honso Komosu (thế kỷ 16) đã ghi Cúc trong thành phần một toa thuốc giúp kéo dài tuổi thọ. Theo toa thuốc này, mỗi bộ phận của cây như chồi non, hoa, cuống hoa, rễ..cần phải được thu hái vào những thời điểm khác nhau trong tiến trình tăng trưởng, phơi khô rồi tán thành bột. Uống bột mỗi ngày 3 lần trong 100 ngày. Sau 1 năm, tóc đang bạc sẽ trở lại đen..
– Dược học cổ truyền Trung Hoa ghi chép ‘Cúc hoa’ trong ‘Thần nông bản thảo kinh’, Lá được ghi, đầu tiên trong ‘Danh Y biệt lục’ (Đả0 Hoằng Cảnh) khoảng năm 500 , thời Nam-Bắc triều. Lý thời Trân trong Bản thảo cương mục đã chia Cúc thành nhiều loại, trị bệnh khác nhau..Dược liệu còn có những tên gọi khác như Cam cúc hoa (Gan-ju-hua)..Hàng cúc hoa..
Dược liệu: Cúc hoa (Ju-hua) là Hoa của cây Bạch cúc, thu hoạch vào tuần thứ ba trong tháng 10; đây là giai-đoạn hoa nở rộ tại các vùng nuôi trồng như An huy, Hà nam, Triết giang (đặc biệt nhất là vùng Hàng châu). Sau khi hái, hoa được sấy nhẹ đến khô, hay hấp rồi phơi nắng, hoẵc có thể hong khô trong phòng qua gió. ‘ Bạch cúc (bai-ju) là toàn cây cắt , rồi bó và treo đến khi khô rồi tách lấy hoa. ‘Chu cúc’(chu-yu) của An Huy là cây thu hái khi hoa gần như nở hết, rồi treo trong phòng tối đến khô, có thể xông sulfur đến khi hoa và lá mềm (đ khô chừng 60%). Cây được rung đến lúc hoa cụp tròn và đến khi khô hẳn.. Hoàng cúc (huang-ju) là hoa được rang qua lửa nhỏ đến khô (tại Triết giang). Cúc cũng còn được sao’ tồn tính’..
Cúc hoa được xem là có vị ngọt đắng, tính hàn nhẹ, tác dụng vào kinh mạch thuc Can và Phế.
Cúc hoa có tác dụng :
– ‘tán Phong’ và thanh ‘Nhiệt’ tri được các chứng Phong-Nhiệt gây ra nóng sốt và nhức đầu. Dùng phối hợp với Xuyên khung (Chuan xiong=Radix Lingustici) để trị đau nhức đầu do ngoại Nhiệt -Phong xâm nhập hay do Dương-Can thăng phát .
– ‘thanh Can’ và thanh mục (mắt) , giải trừ Phong-Nhiệt nơi Can tạng gây ra mắt khô, đỏ, đau, chảy nước mắt.. và trị Âm suy nơi tạng Thận và Can gây ra mắt nhìm có đốm, mắt mờ, chóng váng. Dùng phối hợp với Câu kỷ tử (gou-qi-zi=Fructus Lycii) khi trị mắt mờ, choáng váng..
– an định Can và trừ Phong : trị nhức đầu, chóng mặt, tai ù do Dương thăng tại Can. Dùng phối hợp với Bạch thược, Thạch quyết minh, Thăng ma và Câu tích..
– Vài phương thức dùng Cúc trắng trong dân-gian :
– Để trị mỏi mắt và hoa mắt vì đọc sách quá lâu, làm việc quá nhiều bằng mắt ; dùng 9 gram hoa cúc trắng tươi, ngâm trong nước sôi từ 5-10 phút, khi nước đủ ấm, lấy hoa ra đắp trên mắt từ 10 đen 20 phút.. lập lại 2-3 lần và đắp thêm buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể uống nước đã ngâm hoa.
Cúc hoa có tác dụng :
– ‘tán Phong’ và thanh ‘Nhiệt’ tri được các chứng Phong-Nhiệt gây ra nóng sốt và nhức đầu. Dùng phối hợp với Xuyên khung (Chuan xiong=Radix Lingustici) để trị đau nhức đầu do ngoại Nhiệt -Phong xâm nhập hay do Dương-Can thăng phát .
– ‘thanh Can’ và thanh mục (mắt) , giải trừ Phong-Nhiệt nơi Can tạng gây ra mắt khô, đỏ, đau, chảy nước mắt.. và trị Âm suy nơi tạng Thận và Can gây ra mắt nhìm có đốm, mắt mờ, chóng váng. Dùng phối hợp với Câu kỷ tử (gou-qi-zi=Fructus Lycii) khi trị mắt mờ, choáng váng..
– an định Can và trừ Phong : trị nhức đầu, chóng mặt, tai ù do Dương thăng tại Can. Dùng phối hợp với Bạch thược, Thạch quyết minh, Thăng ma và Câu tích..
– Vài phương thức dùng Cúc trắng trong dân-gian :
– Để trị mỏi mắt và hoa mắt vì đọc sách quá lâu, làm việc quá nhiều bằng mắt ; dùng 9 gram hoa cúc trắng tươi, ngâm trong nước sôi từ 5-10 phút, khi nước đủ ấm, lấy hoa ra đắp trên mắt từ 10 đen 20 phút.. lập lại 2-3 lần và đắp thêm buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể uống nước đã ngâm hoa.
2- Cúc hoa vàng hay Kim cúc.
Tên khoa học : Chrysanthemum indicum
Tại Pháp : Chrysanthème
Tại Trung Hoa : Dã cúc hoa
Cúc hoa vàng có nguồn gốc từ Trung Hoa, Nhật bản, được trồng rất phổ biến tại các quốc gia Á châu như Ấn Độ, Việt Nam vì cho hoa đẹp và nở vào dịp Tết Nguyên đán.
Kim cúc thuc loại thân thảo hằng niên hay đa niên, thân cứng cao tới 1m, phân cành tại ngọn, Lá màu xanh lục ,không cuống, mọc so le, có thùy sâu, mép có nhiều răng. Hoa mọc thành cụm, hình đầu, mọc ở nách lá hay ở đỉnh cành. Hoa có đường kính khoảng 1-1.5 cm, cuống dài 2-5 cm. Lá bắc tổng bao ở bên ngoài có dạng thuôn dài, mép thô, xếp thành nhiều dãy. Vòng hoa ở ngoài có cánh môi màu vàng. Quả thuc loại bế quả nhẵn có mào lông
Tên khoa học : Chrysanthemum indicum
Tại Pháp : Chrysanthème
Tại Trung Hoa : Dã cúc hoa
Cúc hoa vàng có nguồn gốc từ Trung Hoa, Nhật bản, được trồng rất phổ biến tại các quốc gia Á châu như Ấn Độ, Việt Nam vì cho hoa đẹp và nở vào dịp Tết Nguyên đán.
Kim cúc thuc loại thân thảo hằng niên hay đa niên, thân cứng cao tới 1m, phân cành tại ngọn, Lá màu xanh lục ,không cuống, mọc so le, có thùy sâu, mép có nhiều răng. Hoa mọc thành cụm, hình đầu, mọc ở nách lá hay ở đỉnh cành. Hoa có đường kính khoảng 1-1.5 cm, cuống dài 2-5 cm. Lá bắc tổng bao ở bên ngoài có dạng thuôn dài, mép thô, xếp thành nhiều dãy. Vòng hoa ở ngoài có cánh môi màu vàng. Quả thuc loại bế quả nhẵn có mào lông
Thành phần hóa học :
Thành phần hóa học của Cúc vàng tương đối hơi khác với Cúc trắng.
Hoa chứa ;
– Các glucosides như luteolin, chrysanthemin, stachydrin..
– Các flavonoids và flavone glycosides loại eudesmane-sesquiterpen như kikkanol A, B và C; loại germacrane-sesquiterpen như kikkanol D, E, F
– Tinh dầu dễ bay hơi : thujone, cineole, alpha-pinene, limonene, camphor, borneol, bornyl ace tate, Yejuhua lactone..
– Sắc tố : chrysanthemaxanthin.
– Các hoạt chất phức tạp như acacetine, cumambrin A..
– Các polysaccharides , tannins,
– Vitamins như A, B1
.
Các nghiên cứu khoa học về Cúc hoa vàng :
– Tác dụng ức chế sự sản xuất nitric oxide ;
Nghiên cứu tại Đại học Kyoto (Nhật) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol và ethyl acetate chứa các flavonoids có hoạt tính ức chế sự sản xuất nitric oxide nơi các đại thực bào kích khởi do liposaccharides, và ức chế hoạt đng của men aldose-reductase..(Chemical Pharmacy Bulletin (Tokyo) Số 5-2000)
– Khả năng trị gout :
Trong trường hợp bệnh gout : men xanthine oxydase là chất xúc tác sự oxy-hóa hypoxanthine thành xanthine và sau đó thành acid uric.. chất đóng vai trò quan trọng gây ra gout. Nghiên cứu tại ĐH Nam Kinh (trung Hoa) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol cho thấy có tác dụng ức chế men này ở nồng độ IC50 là 22 microgram/ ml (trong khi đó nồng độ allopurinol dùng làm đối chứng là 1.06 microg/ml) (Journal of Ethnopharmacology Số 73-2000)
– Hoạt tính kháng sinh :
Các dịch chiết từ hoa cúc vàng có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn(15 loại) và nấm trong đó gồm Staphylococcus aureus, Shigella spp. và cả vài siêu vi trùng loại Echo.
– Khả năng hạ huyết áp :
Các chế phẩm từ hoa cúc vàng, khi cho dùng uống hay chích qua màng phúc toan, đều làm hạ huyết áp mau chóng. Các chế phẩm dùng toàn cây có tác dụng độc hại hơn và hoạt tính kém hơn là trích từ hoa. Nơi chó có áp huyết bình thường hay cao, dịch chiết từ hoa ở liều 100-200 mg/kg cơ thể gây ra hạ huyết áp nhưng không ảnh hưởng trên tim và gan (The Pharmacology of Chinese Herbs)
– Tác dụng trị bệnh đường hô hấp :
Trong một thử nghiệm tại Nhật trên 1000 bệnh nhân về tác dụng của Cúc vàng trong việc ngừa cảm, ghi nhận những người uống nước sắc hoa cúc vàng mỗi tuần một lần, có thể giảm được13.2 % những cơn cảm lạnh (so với năm trước đó). Khi thử nghiệm trên 119 trường hợp sưng phổi kinh niên, 38 % giảm được các cơn bệnh (so với nhóm đối chứng)
Thành phần hóa học của Cúc vàng tương đối hơi khác với Cúc trắng.
Hoa chứa ;
– Các glucosides như luteolin, chrysanthemin, stachydrin..
– Các flavonoids và flavone glycosides loại eudesmane-sesquiterpen như kikkanol A, B và C; loại germacrane-sesquiterpen như kikkanol D, E, F
– Tinh dầu dễ bay hơi : thujone, cineole, alpha-pinene, limonene, camphor, borneol, bornyl ace tate, Yejuhua lactone..
– Sắc tố : chrysanthemaxanthin.
– Các hoạt chất phức tạp như acacetine, cumambrin A..
– Các polysaccharides , tannins,
– Vitamins như A, B1
.
Các nghiên cứu khoa học về Cúc hoa vàng :
– Tác dụng ức chế sự sản xuất nitric oxide ;
Nghiên cứu tại Đại học Kyoto (Nhật) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol và ethyl acetate chứa các flavonoids có hoạt tính ức chế sự sản xuất nitric oxide nơi các đại thực bào kích khởi do liposaccharides, và ức chế hoạt đng của men aldose-reductase..(Chemical Pharmacy Bulletin (Tokyo) Số 5-2000)
– Khả năng trị gout :
Trong trường hợp bệnh gout : men xanthine oxydase là chất xúc tác sự oxy-hóa hypoxanthine thành xanthine và sau đó thành acid uric.. chất đóng vai trò quan trọng gây ra gout. Nghiên cứu tại ĐH Nam Kinh (trung Hoa) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol cho thấy có tác dụng ức chế men này ở nồng độ IC50 là 22 microgram/ ml (trong khi đó nồng độ allopurinol dùng làm đối chứng là 1.06 microg/ml) (Journal of Ethnopharmacology Số 73-2000)
– Hoạt tính kháng sinh :
Các dịch chiết từ hoa cúc vàng có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn(15 loại) và nấm trong đó gồm Staphylococcus aureus, Shigella spp. và cả vài siêu vi trùng loại Echo.
– Khả năng hạ huyết áp :
Các chế phẩm từ hoa cúc vàng, khi cho dùng uống hay chích qua màng phúc toan, đều làm hạ huyết áp mau chóng. Các chế phẩm dùng toàn cây có tác dụng độc hại hơn và hoạt tính kém hơn là trích từ hoa. Nơi chó có áp huyết bình thường hay cao, dịch chiết từ hoa ở liều 100-200 mg/kg cơ thể gây ra hạ huyết áp nhưng không ảnh hưởng trên tim và gan (The Pharmacology of Chinese Herbs)
– Tác dụng trị bệnh đường hô hấp :
Trong một thử nghiệm tại Nhật trên 1000 bệnh nhân về tác dụng của Cúc vàng trong việc ngừa cảm, ghi nhận những người uống nước sắc hoa cúc vàng mỗi tuần một lần, có thể giảm được13.2 % những cơn cảm lạnh (so với năm trước đó). Khi thử nghiệm trên 119 trường hợp sưng phổi kinh niên, 38 % giảm được các cơn bệnh (so với nhóm đối chứng)
Cúc vàng trong Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền Trung Hoa và Nhật sử dụng Cúc vàng để trị bệnh khác với Cúc trắng. Cúc vàng hay Dã cúc hoa (Ye-ju-hua), Nhật dược gọi là nogikuka.
Dã cúc được cho là có vị đắng, cay và tính hàn nhẹ, tác động vào các kinh mạch thuộc Phế và Can.
Dã cúc có các hoạt tính :
– Thanh ‘Hỏa’, giải độc dùng trị mụn nhọt, ghẻ lở, và trị đau, sưng cổ họng, sưng mắt đỏ do ‘Phong-Hỏa’. Được phối hợp với Kim ngân hoa (Jin-yin-hua= Flos Lonicerae Japonicae) và Bồ công Anh (Pu-gong-ying = Herba Taraxaxi Mongolici).
Tại Ấn độ, Cúc hoa vàng được gọi là guldaudi, Phạn ngữ là sevanti. Toàn cây dùng chung với tiêu đen để trị lậu mủ (gonorrhea). Hoa dùng làm thuốc kiện vị.
.
3- Vài loài Cúc khác :
Ngoài Bạch cúc và Kim Cúc còn vài loài Cúc khác khá phổ biến tại Việt Nam và cũng được xem là cây cảnh trưng bày trong dịp Tết như :
– Cúc trắng lớn
Tên khoa học : Chrysanthemum maximum ( C. superbum)
Các tên gọi khác : Max Daisy, Shasta Daisy (Anh-Mỹ), Grande marguerite (Pháp)
Cúc trắng marguerite có nguồn gốc từ Âu châu, được trồng phổ biến tại Bắc và Trung Việt Nam để dùng làm hoa cắt cành và làm bồn cảnh.
Dược học cổ truyền Trung Hoa và Nhật sử dụng Cúc vàng để trị bệnh khác với Cúc trắng. Cúc vàng hay Dã cúc hoa (Ye-ju-hua), Nhật dược gọi là nogikuka.
Dã cúc được cho là có vị đắng, cay và tính hàn nhẹ, tác động vào các kinh mạch thuộc Phế và Can.
Dã cúc có các hoạt tính :
– Thanh ‘Hỏa’, giải độc dùng trị mụn nhọt, ghẻ lở, và trị đau, sưng cổ họng, sưng mắt đỏ do ‘Phong-Hỏa’. Được phối hợp với Kim ngân hoa (Jin-yin-hua= Flos Lonicerae Japonicae) và Bồ công Anh (Pu-gong-ying = Herba Taraxaxi Mongolici).
Tại Ấn độ, Cúc hoa vàng được gọi là guldaudi, Phạn ngữ là sevanti. Toàn cây dùng chung với tiêu đen để trị lậu mủ (gonorrhea). Hoa dùng làm thuốc kiện vị.
.
3- Vài loài Cúc khác :
Ngoài Bạch cúc và Kim Cúc còn vài loài Cúc khác khá phổ biến tại Việt Nam và cũng được xem là cây cảnh trưng bày trong dịp Tết như :
– Cúc trắng lớn
Tên khoa học : Chrysanthemum maximum ( C. superbum)
Các tên gọi khác : Max Daisy, Shasta Daisy (Anh-Mỹ), Grande marguerite (Pháp)
Cúc trắng marguerite có nguồn gốc từ Âu châu, được trồng phổ biến tại Bắc và Trung Việt Nam để dùng làm hoa cắt cành và làm bồn cảnh.
Cây thuộc loại thảo, đa niên, cao 0.7-1m. Thân nhẵn, phân chia nhánh ở gốc. Lá mọc cách, phiến lá có mép khía răng cưa thưa; gân lá mảnh. Phiến tương đối dầy, phía đầu tròn. Hoa mọc thành cụm, hình đầu, đường kính 6-10 cm. Phía ngoài của hoa có những lá bắc mỏng dài 1cm, vòng hoa ở ngoài không đều có cánh môi lớn màu trắng xòe đều. Hoa ở giữa hình ống màu vàng. Quả thuộc loại bế quả nhẵn.
Shasta Daisy khá được ưa chung tại Hoa Kỳ và các nhà vườn đã lai tạo được rất nhiều chủng cho hoa rất lớn và đẹp như ‘Majestic’ ‘Cobham’s Gold’, ‘Aglaya’
Cúc trắng lớn hầu như không được dùng trong dược học.
.
Cúc trắng lớn hầu như không được dùng trong dược học.
.
– Cúc tím (Kiều tràng)
Tên khoa học : Callistephus chinensis , họ thực vật Asteraceae
Các tên khác : China Aster, Reine Marguerite, Aster de Chine
Tên khoa học : Callistephus chinensis , họ thực vật Asteraceae
Các tên khác : China Aster, Reine Marguerite, Aster de Chine
Cúc tím có nguồn gốc từ Trung Hoa, thích hợp với vùng có khí hậu lạnh , mát như Bắc Việt Nam, Đà lạt .. Cây thuộc loại thân thảo, hằng niên, mọc thành bụi nhỏ, thân thẳng đứng phân cành nhiều. Lá mọc cách, lá ở gốc có phiến xẻ thùy sâu . Các lá phía trên hình trái xoan, cuống lá có cánh, các lá ở đỉnh không có cuống. Hoa hình đầu, mọc thành cụm lớn đường kính 4-10 cm. Hoa ở vòng ngoài không đều có cánh môi thuôn dài, mọc lật ra ngoài màu hồng hay tím nhạt, trắng. các hoa ở giữa xếp chặt nhau màu vàng..Hoa thường được cắt cành và cũng được lai tạo để cho nhiều chủng có hoa nhiều dạng và nhiều màu..
Tại Úc, người ta tặng mẹ hoa cúc nhân dịp Ngày của Mẹ (rơi vào mùa thu tháng 5 ở bán cầu nam). Đàn ông thỉnh thoảng đeo hoa cúc trên ve áo để vinh danh mẹ.
Tài liệu sử dụng :
– Chinese Herbal Remedies ( Albert Leung)
– Chinese Herbal Medicine Materia Medica (Bensky)
– Medicinal Plants of India (SK Jain)
– Natural Medicines Comprehensive Database (Pharmacist’s Letter)
– The Pharmacology of Chinese Herbs (Kee Chang Huang)
– Oriental Materia Medica (Hong-Yen Hsu)
– Handbook of Medicinal Herbs (James Duke)
– Sunset Western Garden Book
– Cây Cảnh, Hoa Việt Nam (Trần Hợp)
– Chinese Herbal Remedies ( Albert Leung)
– Chinese Herbal Medicine Materia Medica (Bensky)
– Medicinal Plants of India (SK Jain)
– Natural Medicines Comprehensive Database (Pharmacist’s Letter)
– The Pharmacology of Chinese Herbs (Kee Chang Huang)
– Oriental Materia Medica (Hong-Yen Hsu)
– Handbook of Medicinal Herbs (James Duke)
– Sunset Western Garden Book
– Cây Cảnh, Hoa Việt Nam (Trần Hợp)
Trần Việt Hưng
Photos: hannahlinhflower
Nov 14 – 2013
Thuyền và Biển: thơ Xuân-Quỳnh
Uploaded by Dao trandzung
KHÚC MÙA THU
Uploaded by Kim Ha
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét